Phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong xét xử vắng mặt bị cáo
Theo dõi Pháp luật & Xã hội trên![]() |
Một phiên toà xét xử vụ án hình sự của TAND TP Hà Nội. Ảnh: N.N |
Hỏi: Tôi được biết, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao liên tịch ban hành Thông tư quy định về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo. Xin quý báo cho biết một số nội dung?
(Trần Thảo My, phường Hồng Hà, Hà Nội)
Trả lời:
Về câu hỏi của quý bạn đọc, xin trả lời như sau:
Ngày 1/7/2025, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án Nhân dân tối cao liên tịch ban hành Thông tư liên tịch 05/2025/TTLT-BCA-BQP-VKSNDTC-TANDTC quy định về phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo. Theo đó, trình tự, thủ tục và việc phối hợp trong điều tra, truy tố, xét xử vắng mặt bị can, bị cáo như sau:
Điều 5. Kết luận điều tra đề nghị truy tố vắng mặt bị can
1. Cơ quan điều tra phải tiến hành các hoạt động điều tra, xác minh để xác định trường hợp và điều kiện ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 233 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này. Các tài liệu xác định bị can vắng mặt được đưa vào hồ sơ vụ án và chuyển cho Viện kiểm sát để kiểm sát theo quy định.
2. Chậm nhất 20 ngày trước khi kết thúc điều tra vụ án có bị can vắng mặt, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải phối hợp, tổ chức họp thống nhất đánh giá toàn bộ chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng của vụ án, nếu thấy có đủ căn cứ, điều kiện để kết thúc điều tra, kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 233 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này thì Cơ quan điều tra ban hành bản kết luận điều tra đề nghị truy tố. Việc thống nhất đánh giá chứng cứ, tài liệu và các thủ tục tố tụng của vụ án phải được lập biên bản, đưa vào hồ sơ vụ án.
3. Trường hợp không biết bị can đang ở đâu và việc truy nã không có kết quả theo điểm a khoản 1 Điều 4 của Thông tư liên tịch này mà hết thời hạn điều tra, nhưng không đủ điều kiện ra kết luận điều tra đề nghị truy tố vắng mặt bị can quy định tại khoản 2 Điều 4 của Thông tư liên tịch này, Cơ quan điều tra phải ra quyết định tạm đình chỉ điều tra vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can theo quy định tại Điều 229 của Bộ luật Tố tụng hình sự; việc giải quyết vụ án thực hiện theo thủ tục chung.
4. Bản kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can phải có các nội dung quy định tại Điều 233 của Bộ luật Tố tụng hình sự; lý do và căn cứ để kết luận điều tra đề nghị truy tố vắng mặt bị can.
Điều 6. Truy tố vắng mặt bị can
1. Trường hợp Cơ quan điều tra kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can thì Viện kiểm sát phải tiến hành các hoạt động để xác định trường hợp và điều kiện ban hành bản cáo trạng truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 243 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này. Các tài liệu xác định bị can vắng mặt được đưa vào hồ sơ vụ án.
2. Trường hợp Cơ quan điều tra kết thúc điều tra theo thủ tục chung nhưng trong giai đoạn truy tố thì bị can trốn hoặc không biết bị can ở đâu, Viện kiểm sát đề nghị Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can. Nếu hết thời hạn truy tố mà việc truy nã không có kết quả thì Viện kiểm sát xem xét, quyết định truy tố vắng mặt bị can nếu có đủ căn cứ, điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 243 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này.
3. Trường hợp Cơ quan điều tra kết luận điều tra đề nghị truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can nhưng đến giai đoạn truy tố, bị can trở về, đầu thú hoặc bắt được bị can hoặc trường hợp Viện kiểm sát xác định không đủ căn cứ, điều kiện để quyết định truy tố vắng mặt bị can theo quy định tại khoản 2 Điều 243 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này thì Viện kiểm sát giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
4. Bản cáo trạng truy tố trong trường hợp vắng mặt bị can phải có các nội dung quy định tại Điều 243 của Bộ luật Tố tụng hình sự; lý do và căn cứ để truy tố vắng mặt bị can.
Điều 7. Xét xử vắng mặt bị cáo
1. Trường hợp đã có quyết định truy tố vắng mặt bị can, Tòa án phải kiểm tra tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, nếu có đủ căn cứ, điều kiện quy định tại Điều 4 của Thông tư liên tịch này thì hết thời hạn chuẩn bị xét xử, Tòa án căn cứ quy định tại điểm a hoặc điểm b khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự để xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo. Trường hợp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử hoặc giai đoạn xét xử, bị can, bị cáo trở về, đầu thú hoặc bắt được bị can, bị cáo thì Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
2. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định việc truy tố theo thủ tục chung, nhưng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử không biết rõ bị can, bị cáo đang ở đâu thì Thẩm phán chủ tọa phiên tòa yêu cầu Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã bị can, bị cáo. Sau khi hết thời hạn chuẩn bị xét xử mà việc truy nã không có kết quả thì Cơ quan điều tra đã ra quyết định truy nã phải thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị can, bị cáo nếu có đủ căn cứ, điều kiện theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này.
3. Trường hợp Viện kiểm sát quyết định việc truy tố theo thủ tục chung, sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà bị cáo trốn thì Hội đồng xét xử tạm đình chỉ vụ án và yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị cáo theo quy định tại khoản 1 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày có quyết định truy nã mà việc truy nã không có kết quả thì Cơ quan điều tra ra quyết định truy nã phải thông báo cho Tòa án biết để xem xét, quyết định phục hồi vụ án và quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo nếu đủ căn cứ, điều kiện quy định tại điểm a khoản 2 Điều 290 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 4 của Thông tư liên tịch này. Trường hợp không đủ căn cứ, điều kiện để xét xử vắng mặt thì Tòa án giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
4. Trường hợp đã có cáo trạng truy tố vắng mặt bị can, nhưng Tòa án xét thấy không có đủ căn cứ, điều kiện quy định tại khoản 2 Điều 4 của Thông tư liên tịch này và có căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 280 của Bộ luật Tố tụng hình sự thì Tòa án quyết định trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung hoặc Tòa án quyết định tạm đình chỉ vụ án. Sau khi điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án và có đủ căn cứ, điều kiện theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Thông tư liên tịch này thì Tòa án xem xét, quyết định đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị cáo.
5. Trình tự, thủ tục tại phiên tòa khi xét xử vắng mặt bị cáo được thực hiện theo quy định tại Chương XXI và Chương XXII của Bộ luật Tố tụng hình sự và các thủ tục sau đây: a) Hội đồng xét xử công bố lý do xét xử vắng mặt bị cáo, lý lịch; phổ biến quyền và nghĩa vụ của bị cáo vắng mặt; kêu gọi bị cáo đầu thú, có mặt tại phiên tòa để thực hiện quyền tự bào chữa và được hưởng các tình tiết giảm nhẹ, khoan hồng theo quy định của pháp luật; b) Người bào chữa, người đại diện hoặc người thân thích của bị cáo vắng mặt phát biểu ý kiến, đưa ra tài liệu, chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo; đọc bản tự bào chữa của bị cáo, nếu có.

Pháp luật và Xã hội
Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại