Chủ nhật 08/06/2025 20:03
Luật Thủ đô 2024

Xây dựng, thực hiện chính sách an sinh, phúc lợi xã hội bền vững

Theo dõi Pháp luật & Xã hội trên
TS. Phạm Thị Thu Lan - Phó Viện trưởng Viện Công nhân và công đoàn cho biết, chính sách an sinh xã hội tạo ra các mức sàn để không ai bị rơi xuống dưới, hay nói cách khác, không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển kinh tế. Còn chính sách phúc lợi xã hội đề cập tới sự phân chia lợi ích cả ở cấp vĩ mô và vi mô. Sự phân chia này để công bằng, cần dựa trên các quy định được Nhà nước thiết lập, không thể giao phó hoàn toàn cho người có vốn và tài sản quyết định.
Giải ngân vốn chính sách xã hội cho người dân tại xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín. Ảnh: Phạm Hùng
Giải ngân vốn chính sách xã hội cho người dân tại xã Tô Hiệu, huyện Thường Tín. Ảnh: Phạm Hùng

Thực trạng chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội

Chính sách xã hội là một trong những chính sách quan trọng ở bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Chính sách xã hội nhằm trợ giúp các bộ phận dân cư dễ bị tổn thương về mặt xã hội. Chính sách xã hội triển khai hiệu quả trong đời sống nhân dân sẽ là động lực thúc đẩy sự tiến bộ và công bằng xã hội, tạo động lực cho phát triển bền vững. Trong thế kỷ XXI chính sách xã hội không chỉ bao gồm chức năng quản lý xã hội, mà còn thể hiện mong muốn của Nhà nước hướng đến một xã hội công bằng, tiến bộ, văn minh.

Chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội có nội hàm rất rộng, được điều chỉnh bởi nhiều văn bản khác nhau trong nhiều lĩnh vực, như bảo hiểm xã hội, việc làm, thu nhập, xóa đói, giảm nghèo, chính sách với người có công, trợ giúp xã hội...

Nhiều văn kiện của Đảng và Hiến pháp đã đề cập chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội. Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 23-5-2018, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “Về cải cách chính sách bảo hiểm xã hội” xác định “Cải cách chính sách bảo hiểm xã hội để bảo hiểm xã hội thực sự là một trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội, từng bước mở rộng vững chắc diện bao phủ bảo hiểm xã hội, hướng tới mục tiêu bảo hiểm xã hội toàn dân”.

Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII đã bổ sung, phát triển, làm rõ hơn nhận thức mới trong bối cảnh tình hình mới, yêu cầu, nhiệm vụ mới. Hội nghị đã ban hành Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023 “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới”, trong đó tiếp tục khẳng định: Chính sách xã hội là chính sách đối với con người, vì con người.

Quan điểm này của Đảng đã mở rộng ra toàn bộ chính sách xã hội khác. Việc giải quyết các vấn đề xã hội từ Nhà nước đóng vai trò nòng cốt và chủ yếu chuyển sang Nhà nước đóng vai trò chủ đạo đi đôi phát huy vai trò quan trọng của doanh nghiệp, thị trường, các tổ chức xã hội và ý chí tự lực, tự cường của người dân như lời phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “từ bảo đảm và ổn định sang ổn định và phát triển; gắn với quản lý phát triển xã hội bền vững, nâng cao phúc lợi xã hội toàn dân, bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người, an ninh xã hội”(1).

Quyền được bảo đảm an sinh xã hội được hiến định tại Điều 34, Hiến pháp năm 2013: “Công dân có quyền được bảo đảm an sinh xã hội”. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp. Luật Bảo hiểm xã hội là văn bản quy phạm pháp luật quan trọng trong lĩnh vực an sinh xã hội, ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội và có tác động trực tiếp tới mọi tầng lớp dân cư trong xã hội. Nhiều văn bản pháp luật khác liên quan đến chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cũng cần được đề cập, như Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Người khuyết tật, Luật Việc làm, Luật Người cao tuổi, Luật Khám bệnh, chữa bệnh, Luật Giáo dục nghề nghiệp...

Chia sẻ về một số giải pháp xây dựng và thực hiện chính sách an sinh xã hội, phúc lợi xã hội bền vững theo quy định tại Điều 27; Điều 43 của Luật Thủ đô 2024, TS. Phạm Thị Thu Lan - Phó Viện trưởng Viện Công nhân và công đoàn cho biết, Luật Thủ đô 2024 là một trong những văn bản pháp luật quan trọng nhằm xây dựng, phát triển, quản lý và bảo vệ Thủ đô. Một trong những nội dung quan trọng của Luật là chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

TS. Phạm Thị Thu Lan cho biết thêm, nếu chính sách xã hội đề cập tới tổng thể chính sách để tạo ra sự cân bằng giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, thì chính sách an sinh xã hội tạo ra các mức sàn để không ai bị rơi xuống dưới, hay nói cách khác, không ai bị bỏ lại phía sau trong quá trình phát triển kinh tế. "Miếng bánh" phát triển kinh tế có thể được chia sẻ công bằng cho phát triển xã hội nhưng chưa chắc được chia sẻ công bằng cho tất cả mọi người.

Đây là cơ sở cho sự ra đời của chính sách an sinh xã hội. Còn chính sách phúc lợi xã hội đề cập tới sự phân chia lợi ích cả ở cấp vĩ mô và vi mô. Sự phân chia này để công bằng, cần dựa trên các quy định được Nhà nước thiết lập, không thể giao phó hoàn toàn cho người có vốn và tài sản quyết định.

Chia sẻ về thực trạng chính sách an sinh xã hội, TS. Phạm Thị Thu Lan cho hay, Việt Nam đã có các tiêu chuẩn như: ngưỡng nghèo chuẩn nghèo, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, tiền lương tối thiểu, chế độ tối thiểu đối với người lao động làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, chế độ tối thiểu đối với người lao động qua đào tạo, học nghề... Tuy nhiên, trong thực tế thiết kế và thực hiện chính sách an sinh xã hội, có một số vấn đề nổi lên cần quan tâm.

Theo đó, chế độ bảo hiểm xã hội được thiết kế với hai chính sách: bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc và BHXH tự nguyện. Chính sách BHXH bắt buộc bao gồm 5 chế độ: hưu trí, ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, thai sản, tử tuất, được thiết kế dành cho người lao động làm việc có quan hệ lao động - thường là người lao động trong khu vực doanh nghiệp, khu vực hành chính - sự nghiệp và một bộ phận người lao động làm việc trong khu vực hợp tác xã và hộ kinh doanh.

Chính sách BHXH tự nguyện chỉ có 2 chế độ: hưu trí và tử tuất, dành cho đối tượng là người lao động làm việc không có quan hệ lao động, tức là người lao động tự do hay người lao động tự làm. Việc thiết kế hai chế độ khác nhau này bản thân đã tạo ra sự phân biệt đối xử giữa những người lao động cùng làm việc và đóng góp cho nền kinh tế của đất nước.

Hiện nay, BHXH tự nguyện đang có tỷ lệ tham gia rất thấp, chưa đầy 5%. Người lao động tham gia BHXH chủ yếu là trong khu vực chính thức. Chương trình hỗ trợ, trợ giúp xã hội trong rủi ro thường được gắn với BHXH, ví dụ hỗ trợ người bị nhiễm Covid-19 hay hỗ trợ đào tạo nghề áp dụng cho đối tượng tham gia BHXH. Với tỷ lệ tham gia BHXH thấp, gần như người lao động khu vực phi chính thức không được hưởng các chính sách hỗ trợ trong khủng hoảng. Điều này cho thấy người lao động khu vực phi chính thức đang bị bỏ lại phía sau cả về mặt chính sách cũng như thực tiễn.

Về chính sách phúc lợi xã hội, TS. Phạm Thị Thu Lan cho rằng, thiết chế hóa phúc lợi xã hội là một quá trình liên tục đi liền với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và quốc gia, và cần có sự tham gia của các bên liên quan như đại diện người lao động, người sử dụng lao động và cộng đồng địa phương.

Thiết chế hóa phúc lợi cơ quan/tổ chức/đơn vị doanh nghiệp đòi hỏi sự hoàn thiện chính sách, pháp luật về quy trình, thủ tục, cơ chế, biện pháp để tạo thuận lợi cho đối thoại và thương lượng tập thể giữa công đoàn và người sử dụng lao động, ngăn chặn các hành vi không thiện chí của người sử dụng lao động trong đối thoại và thương lượng tập thể, cũng như các hành vi can thiệp thao túng, phân biệt đối xử của người sử dụng lao động đối với người lao động và tổ chức công đoàn, tìm cách cản trở tiếng nói của người lao động và cán bộ công đoàn, cản trở quá trình thương lượng tập thể thực chất.

Giải pháp về chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội

TS. Phạm Thị Thu Lan đề xuất một số giải pháp đối với Thủ đô để thực hiện quy định trong Luật Thủ đô 2024 về chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội. Theo đó, cần xây dựng tiêu chí đấu thầu cho các dự án công, trong đó bao gồm các tiêu chuẩn về lao động như bảo đảm tiền lương đủ sống, bảo đảm quyền công đoàn và các quyền cơ bản khác của người lao động. Việc xây dựng các tiêu chí này cần được thực hiện theo cơ chế ba bên, có sự tham gia của tổ chức đại diện người lao động và các hiệp hội ngành có đông lao động trên địa bàn Thủ đô.

Bên cạnh đó, cần thử nghiệm chính sách BHXH bình đẳng đối với toàn bộ người lao động dựa trên đóng - hưởng, trong đó xác định mức đóng góp bắt buộc tối thiểu. Người lao động đóng mức cao hơn có thể được hưởng chế độ cao hơn. Đối với những người lao động có mức thu nhập thấp, cần có chính sách hỗ trợ một phần của Nhà nước cho đóng góp của họ. Đóng góp của người sử dụng lao động sẽ là đóng góp cho sử dụng chung, cho dù là người lao động chính thức hay phi chính thức.

Cùng với đó, cần xây dựng chính sách về tiền lương tối thiểu đủ sống, tính và công bố mức lương tối thiểu đủ sống cho địa bàn Thủ đô để làm cơ sở tham chiếu cho các doanh nghiệp và đơn vị thực hiện. Có thể thí điểm xây dựng chính sách sàn thu nhập tối thiểu cho những người lao động tự làm, tính và công bố mức thu nhập tối thiểu cho người lao động tự làm, đồng thời tiến hành khảo sát thực tiễn thu nhập của người lao động tự làm để hình thành chính sách hỗ trợ cho người có thu nhập dưới mức tối thiểu.

Tăng cường vai trò công đoàn trong quá trình xây dựng và giám sát thực thi chính sách, pháp luật của Thủ đô; cần hình thành cơ chế tham vấn và đối thoại thường xuyên của chính quyền Thủ đô với tổ chức công đoàn và người lao động. Thí điểm xây dựng quy định về đồng quyết định tại nơi làm việc để đại điện người lao động là công đoàn có thể tham gia ban lãnh đạo của doanh nghiệp để thực hiện chức năng tham gia quản lý của công đoàn và đồng quyết định trong các vấn đề tại nơi làm việc liên quan tới người lao động.

Năm 2024, TP Hà Nội tiếp nhận và giải quyết 11.292 hồ sơ đề nghị giải quyết chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng với tổng kinh phí 2.521 tỷ đồng. Toàn TP có trên 203.000 đối tượng hưởng trợ cấp xã hội hàng tháng trong tổng số hơn 3,8 triệu người trong cả nước đang hưởng trợ cấp xã hội. Việc triển khai và thực hiện đầy đủ các chế độ, chính sách trợ giúp xã hội đã góp phần ổn định đời sống, bảo đảm an sinh xã hội cho người yếu thế, đồng thời góp phần ổn định tình hình chính trị, an ninh trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn TP.
Cơ chế huy động nguồn lực từ đất đai để đầu tư hệ thống TOD
Ngọc Hiền
Pháp luật và Xã hội

Mở Zalo, bấm quét QR để quét và xem trên điện thoại

Có thể bạn quan tâm

Tin mới hơn
Tin đã đăng
Xem thêm»

Mời bạn quét mã QR để theo dõi Pháp luật và Xã hội trên nền tảng Zalo

Mời bạn quét mã QR để theo dõi phapluatxahoi.kinhtedothi.vn
X
Phiên bản di động